Theo công bố mới đây của các nghiên cứu bệnh lý, bệnh tim mạch là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở độ tuổi 50 - 60, chiếm khoảng 15-25 % tổng số tử vong hiện nay. Trong các bệnh tim mạch ở người lớn tuổi phải kể đến đầu tiên là bệnh cao huyết áp (THA) và những biến chứng của nó. Tại Việt nam, cao huyết áp cũng là một bệnh khá phổ biến và có xu hướng ngày một tăng lên. Vậy nguyên nhân huyết áp cao là do đâu?
Mục lục
Người cao huyết áp sẽ có biểu hiện ra sao?
Để biết nguyên nhân huyết áp cao thì trước tiên mời các bạn hãy cùng Danke tìm hiểu rõ hơn về bệnh này trước đã. Huyết áp là áp lực của máu trong lòng các động mạch. Khi tim co bóp (tâm thu) máu phụt vào các động mạch rất mạnh, thường tới 100 – 120 mmHg do đó gọi là huyết áp tâm thu hay huyết áp đối đa. Khi tim dãn ra (tâm trương) huyết áp hạ thấp có khi chỉ còn 60 – 80 mmHg nên gọi là huyết áp tâm trương hay huyết áp tối thiểu.
Tỷ lệ người tăng huyết áp ở Việt Nam đang ngày càng tăng
+ Huyết áp tối đa/huyết áp tối thiểu từ 90/60 đến 139/89 mmHg thì coi là bình thường.
+ Huyết áp từ 130/85 đến 139/89 được coi là huyết áp bình thường cao.
+ Huyết áp dưới 90/60 gọi là huyết áp thấp, từ 140/90 đến 159/94 gọi là THA giới hạn, từ 160/95 trở lên gọi là THA chính thức ( JNC VI).
– Các giai đoạn của cao huyết áp (THA):
+ Nếu xếp theo các giai đoạn của bệnh, người ta gọi THA giai đoạn I nghĩa là THA nhưng chưa ảnh hưởng đền các cơ quan khác như: tim, thận, não, mắt.
+ THA giai đoạn II nghĩa là đã ảnh hưởng nhưng mới chỉ có các triệu chứng chủ quan (có thể có dầy thất trái biểu hiện trên điện tim hoặc siêu âm, có hẹp động mạch võng mạc mắt, hoạc có vi-albumin niệu).
+ THA giai đoạn III nghĩa là THA và có cả dấu hiệu khách quan lẫn chủ quan như: khạc máu, khó thở, xuất huyết võng mạc, phù gai thị, xuất huyết não, suy tim…
Biểu đồ huyết áp ở người tối đa và tối thiểu
Nguyên nhân gây huyết áp cao
Có tới 90-95% nguyên nhân huyết áp cao không tìm thấy nguyên nhân, gọi là THA vô căn, còn lại rất ít (5%) gọi là THA thứ phát vì tìm thấy nguyên nhân cụ thể như: có một bệnh nào đó ở thận, thượng thận hoặc do uống thuốc tránh thai… Ngày nay, y học phát triển cũng đang xác định được một số nguy cơ của bệnh THA, nghĩa là nếu có các triệu trứng này sẽ dễ bị THA hơn, đó là:
+ Béo phì (nhất là béo bụng ), tăng cholesterol, tăng LDL, hạ HDL huyết thanh.
+ Tình trạng kháng insulin (đường huyết cao mặc dù vẫn đủ insulin).
+ Ăn mặn, uống nhiều rượu.
+ Ít hoạt động thể lực, tim nhịp nhanh.
+ Yếu tố tâm lý xã hội ( vui buồn cáu giận), và yếu tố môi trường ( ồn ào,chật chội)…
Micalait Gold tốt cho tim mạch, tăng sức đề kháng
– Người huyết áp cao nên lưu ý đến các vấn đề ăn uống sau:
+ Rượu
Trong cơ thể rượu không tồn tại được lâu, chỉ một số được chuyển hoá trong gan, một số được sử dụng ngay, một số được đào thải qua hơi thở ra ngoài. Rượu có tác dụng làm tăng nhịp tim lên rất nhiều. Nếu uống rượu thường xuyên sẽ là yếu tố nguy cơ đối với bệnh huyết áp cao. Người ta thấy rằng nếu mỗi ngày uống khoảng 2 aoxơ-khoảng 56gam tương đương 60 ml rượu nguyên chất, tương đương 150 ml rượu 40 độ thì coi là nguy cơ đối với bệnh tim mạch và bệnh THA.
Nếu uống rượu thường xuyên sẽ là yếu tố nguy cơ đối với bệnh huyết áp cao
+ Béo phì
Ăn uống nhiều hơn mức cần thiết của cơ thể sẽ dẫn tới béo phì. Người béo hay bị bệnh huyết áp cao. Về cơ chế của béo phì dẫn tới tăng huyết áp có thể bao gồm tăng thể tích máu, tăng lưu lượng tâm thu, tăng cung lượng tim và sự thay đổi nội tiết bao gồm sự tăng tiết renin, aldosterol ,insulin, triiodo thyrocin… Một nghiên cứu đã được thực hiện trên 5127 nam, nữ từ 30-62 tuổi và cho thấy THA tăng 8 lần ở nhóm có cân nặng vượt quá 10% và tăng 10 lần ở nhóm có cân nặng vượt quá 20% so với cân nặng lý tưởng.
Người béo hay bị bệnh huyết áp cao
+ Ăn nhiều mỡ
Ảnh hưởng của dầu mỡ lên hệ tim mạch rất khác nhau. Hầu hết các loại mỡ động vật đều có chứa cholesterol và chứa từ 60-90% acid béo bão hoà (trừ mỡ cá hay mỡ một số loài chim có chứa ít hơn) nên mỡ động vật không có lợi cho phòng chống cao huyết áp. Các loại dầu thực vật không có cholesterol và chứa ít (dưới 40%) acid béo bão hoà (trừ dầu dừa và dầu nhân hạt cọ) nên dầu thực vật là loại thực phẩm có lợi cho phòng chống bệnh cao huyết áp.
Ăn nhiều dầu mỡ cũng dẫn đến huyết áp cao
Mỗi người một ngày ăn vào khoảng 300-500 mg cholesterol. Thức ăn chứa nhiều cholesterol là thịt gan, óc, lòng đỏ trứng, bồ dục, lòng non… Khi cholesterol tăng nhiều trong máu, nó sẽ bị lắng đọng và tích luỹ quá mức ở tể bào nội mạc để dần hình thành mảng đông lipit và phát triển thành những mảng vữa xơ, tạo nên bệnh vữa xơ động mạch, làm cho thành mạch kém đàn hồi, dẫn đến cao huyết áp.
+ Muối ăn
Nói muối ăn (NaCL), thực chất là nói đến vai trò của ion Na trong muối ăn vì nó ảnh hưởng tới việc tích giữ nước trong cơ thể. Trong điều kiện bình thường, các hocmon và thận cùng phối hợp điều hoà việc đào thải natri ăn vào. Khi quá khả năng điều chỉnh của cơ thể, hệ thống động mạch có thể tăng nhậy cảm hơn so với angiotensin II và noradrenalin. Tế bào cơ trơn tiểu động mạch ứ natri sẽ ảnh hưởng đến độ thấm của canxi qua màng, làm tăng khả năng co thắt của tiểu động mạch gây THA.
Mỗi người chỉ cần dưới 4 gam/ngày để phòng huyết áp cao
Tổ chức y tế thế giới khuyên không nên dùng quá 6 gam muối/ngày (trong đó 40% từ các thực phẩm chế biến sẵn, 40% từ nấu nướng, 20% từ thức ăn tự nhiên). Một trong những nguyên nhân huyết áp cao phổ biến là do thừa muối. Muốn phòng và chữa bệnh huyết áp cao cần giảm lượng muối ăn vào chỉ còn dưới 4 gam/ngày (1,5 gam Na) hoạc ít hơn nữa. Có nghĩa là chỉ nên ăn rất nhạt, nấu nướng dùng rất ít mắm muối hoặc phải chọn thực phẩm chứa ít muối (cá biển, bánh mỳ, giò chả,… là những thức ăn chứa nhiều muối). Đồng thời cũng cần chú ý đến những nguồn Na không phải từ mắm muối, chẳng hạn như mì chính. Nhiều người ăn nhạt, kiêng mắm muối nhưng lại ăn rất nhiều mì chính để cho “dễ ăn”. Thực chất, trong 100gam muối có chứa 39,3 gam Na thì trong 100 gam mì chính cũng chứa tới 14,8 gam Na chứ cũng không phải là ít.